Lettera a Diogneto in vietnamita

Thư gửi Diogneto - Lettera a Diogneto in vietnamita

Tradotto da Vy Tran a partire da diogneto_ita.pdf, link google: http://www.google.it/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=3&sqi=2&ved=0CEAQFjAC&url=http%3A%2F%2Fwww.liturgia.it%2Fdiogneto%2Fdiogneto_ita.pdf&ei=TnC1UpXtG--OyQOVjIGoCg&usg=AFQjCNFRMcyXWu4pC9Uwajqr9PX_XnlpAQ&sig2=LloSwh657gzfMMLjwV3C9Q

I. 1. Hãy nhìn xem, Diogneto, tôi giúp cho anh hiểu về đạo công giáo với rất nhiều sự thông thái và hãy chăm sóc nhãn quang để biết về họ. Thiên Chúa nào mà họ tin, và họ thờ phượng như thế nào, bởi vì tất cả đều khinh thường thế gian và coi thường cái chết, không thèm nhìn đến thần của người Hy Lạp, không thèm trông đến sự mê tín của người Do Thái, tình cảm nào mà họ mang theo, và tại vì sao dòng dõi mới này và cách họ sống bây giờ mới xuất hiện trong thế giới mà không phải trước kia.

2. Tôi hiều những mong muốn đó của anh và tôi cầu xin Thiên Chúa để Ngài giúp chúng ta nói chuyện và lắng nghe, để Ngài giúp tôi để có thể nói chuyện cùng anh để anh, sau khi lắng nghe sẽ trở nên tốt hơn, và để anh sau khi lắng nghe Đấng nói cùng anh sẽ không phải hối hận.

II. 1. Hãy tẩy rửa những thành kiến nằm sẵn trong đầu anh và hãy cởi bỏ đi những thói quen lừa dối, và hãy trở nên như một con người mới, để trở nên môn đệ của một chân lý mà anh thường thừa nhận là một chân lý mới. Hãy nhận định, không chỉ bằng mắt mà còn bằng cả lý trí, xem thử loại vật chất hay hình ảnh thái nào những thứ mà các anh vẫn gọi và cho rằng đó là các thần.

2. Chúng không phải là những viên đá như những viên đá mà người ta đạp lên, không phải là đồng được đúc thành những dụng cụ để sử dụng, hay gổ đã thối rữa, đồ bạc cần một người trông nom để khỏi bị trộm, sắt đã gỉ, đất sét không còn được sử dụng đẻ làm những thứ ít giá trị hay sao?

3. Không phải chúng được tạo nên từ những vật chất có thể hư hỏng hay sao? Không phải chúng được làm từ sắt và lửa hay sao? Không phải chúng được tạo thành bởi thợ đục, thợ rèn, thợ bạc hay thợ gốm hay sao? Trước khi chúng được tạo dáng, những thứ thần đó không phải là đã bị biến đổi, và giờ đây vẫn có thể thay đổi hay sao? Và những dụng cụ có cùng vật liệu như thế không phải là có thể trờ thành những thứ thần đó nếu gặp được cùng những thợ thủ công đó hay sao?

4. Và ngược lại, những thứ mà các anh vẫn thờ phượng, qua hoạt động của con người, lại không thề lại trở thành những đồ đạc trong nhà như những thứ khác hay sao? Không phải chúng là những thứ đồ câm điếc, không nghe, không có linh hồn, không có tình cảm, không di chuyển được hay sao? Không phải tất cả chúng có thể hư hỏng? Không phải tất cả có thể bị phá huỷ sao?

5.Những thứ mà các anh gọi là các thần đó, chúng giúp được việc gì nếu cuối cùng các anh trở nên như chúng.

6. Bởi vì các anh ghét người công giáo vì họ không tin vào các thần.

7. Nhưng nếu các anh nghĩ về chúng và tưởng tượng về chúng thì các anh không khinh nhược chúng hơn họ hay sao? Không phải là các anh cười họ, các anh xúc phạm họ nhiều hơn là các anh thờ phượng những thứ bằng đá và bằng đất sét mà không có ai canh gác, trong khi các anh khoá tất cả những thứ bằng vàng, bằng bạc khi đêm xuống, và khi ngày đến thì phải trông coi đẻ khỏi bị trộm hay sao?

8. Với những sự tôn kính mà các anh dành cho chúng, nếu chúng có cảm xúc, đúng hơn là các anh đã trừng phạt chúng. Nếu chúng không có cảm xúc thì chính các anh phải xấu hổ vì những sự thờ cúng bằng máu và bằng nhang khói sùm suề.

9. Hãy thử xem ai trong các anh làm những việc như thế, hãy cho phép hắn ta thực hiện những điều đó. Nhưng một người có tâm sẽ không chịu những nhục hình đó vì anh ta có cảm xúc và trí thông minh, nhưng một tảng đá không chịu được điều đó vì nó không có cảm giác.

10. Có rất nhiều thứ tôi có thể nói cho anh vì sao người ki tô hữu không thờ những thần này. Nhưng nếu ai đó thấy những điều này vẫn chưa đủ, tôi tin rằng cũng vô ích nếu có nói thêm nữa.

III. Tín ngưỡng Do Thái

1. Hơn nữa, tôi tin rằng anh muốn được biết vì sao họ không thờ Thiên Chúa theo kiểu của người Do Thái.

2. Người Do Thái có lý khi từ chối việc thờ cúng ngẫu tượng mà chúng ta đã nói đến, và họ thờ một Thiên Chúa và họ tin rằng Ngài là Chúa tể tất cả mọi sự. Nhưng họ sai khi dùng phương thức thờ cúng theo kiểu của dân ngoại

3. Cũng như người hy lạp, dâng hy lễ cho những thứ không có tình cảm và câm điếc chỉ ra sự dại dột, chúng cũng như vậy, nghĩ rằng dâng lên Thiên Chúa như thể Ngài cần, họ thực hiện một vài thứ như thể mất trí chứ không phải là thờ lạy.

4. “Đấng đã tạo ra các tầng trời và trái đất và tất cả mọi sự trong đó”, và thấy trước tất cả mọi điều chúng ta cần, không cần đến những thứ cúng bái. Chính Ngài ban cho những kẻ tin rằng chính họ dân cho Ngài.

5. Những thứ có máu, thịt mỡ và những lễ toàn thiêu mà ho tin là dâng hy lễ lên Thiên Chúa và thờ lại Ngài, tôi thấy hình như họ hơi khác với những kẻ thờ kính những thứ câm điếc mà họ không thể tham gia vào việc thờ phượng. Hãy nghĩ đến việc thờ cúng cho Đấng không cần một thứ gì cả!

IV. Chủ nghĩa hình thức do thái

1. Tôi không nghĩ rằng anh cần biết điều gì đó từ tôi quanh việc họ cẩn thận quá đối với vài loại thực phẩm nào đó, về việc mê tín vì ngày thứ bảy, về sự kiêu hãnh của việc cắt bì, trong việc tuân thủ việc giữ chay và của trăng thượng tuần: toàn những thứ buồn cười, không đáng để bàn đến

2. Không phải là sai khi chấp nhận một vài thứ được tạo bởi Thiên Chúa cho con người sử dụng, đẹp làm sao tạo vật và một vài thứ trong chúng bị từ từ chối như thể không có ích gì và không cần đến hay sao?

3. Không phải là báng bổ thần thánh khi lừa dối Thiên Chúa như một kẻ ngăn cản làm việc tốt ngày thứ bảy hay sao?

4. Không phải là đáng bị chế nhạo khi khoe khoang sự huỷ hoại cơ thể, như thể như được yêu thương cách đặc biệt từ Thiên Chúa hay sao?

5. Kẻ nào không tin vào việc chứng minh là họ mất trí và không tôn thờ việc theo dõi các ngôi sao và mặt trăng để tính tháng, tính năm, để phân biệt thứ tự các thần và phân chia các mùa theo những ý muốn đó, một vài tháng cho lễ hội và những tháng khác đầy buồn phiền hay sao?

6. Tôi nghĩ rằng giờ đây anh đã khá hiểu vì sao người ky tô hữu cho lý khi tránh những sự hư ảo, từ những ảo ảnh, từ chủ nghĩa hình thức và những khoe khoang của người do thái. Đừng tin là có thể học từ con người những bí mật của những tôn giáo đặc biệt.

V. 1. Người ki tô hữu được phân biệt với những người khác không phải vì nơi họ ở, hay vì giọng nói hay phong tục.

2. Thật ra, họ không sống trong những thành phố, cũng không dùng tiếng lóng khác biệt, hay cũng không sống một kiểu cách đặc biệt.

3. Giáo lý của họ không phải là để khám phá những tư tưởng khác biệt của con người, cũng không phải là họ tham perché vào một trào lưu triết học nào của loài người như những kẻ khác.

4. Họ sống trong các thành bang người hy lạp hay dân ngoại giống như bất cứ người dân nào, và thích ứng với phong tục địa phương trong trang phục, trong ăn uống hay trong những thứ khác, họ làm chứng cho một phương pháp sống xã hội đáng khâm phục và trái ngược một cách không nghi ngờ.

5. Họ sống trong quê hương của họ, mà như những người lạ; họ tham gia vào tất cả mọi việc như các công dân khác, nhưng mà họ lại tách ra khỏi mọi sự như những người xa lạ. Mỗi vùng đất xa lạ là quê hương của họ, mà mỗi quê hương lại trở nên xa lạ.

6. Họ cũng lập gia đình như mọi người và sinh nở con cái, nhưng họ không ném trẻ mới sinh.

7. Họ gặp gỡ nhau trong bàn tiệc, chứ không phải trên giường.

8. Họ có thân xác, nhưng không sống theo xác thịt.

9. Họ trú ẩn nơi đất này, nhưng họ có quốc tịch trên trời.

10. Họ tuân thủ luật lệ của nhà nước, và với cuộc sống của mình họ vượt lên trên lề luật.

11. Họ yêu thương tất cả, và bị bách hại bởi những kẻ họ yêu.

12. Họ không được biết đến nhưng lại bị kết án. Họ bị giết nhưng sẽ lấy lại sự sống.

13. Họ nghèo, và trở nên giàu có trong nhiều thứ; họ thiếu thốn tất cả, và lại dư đủ.

14. Họ bị khinh dễ nhưng chính bị coi thường họ lại được vinh quang. Họ bị lăng nhục và được tuyến bố là công chính.

15. Họ bị lăng nhục và họ chúc lành; họ bị đối xử tệ bạc và họ tôn kính.

16. Tuy làm điều tốt đẹp nhưng bị xử phạt như kẻ gian tà; bị kết án họ vui như thể nhận được sự sống.

17. Họ bị đau khổ bởi người do thái như kẻ ngoại giáo, và bị bắt bớ bởi người hy lạp, và những kẻ căm ghét họ thậm chí không nói được vì sao có sự thù ghét đó.

VI. 1. Nói ngắn gọn, như linh hồn hiện diện trong thân xác như thế nào, người ky tô hữu cũng như vậy trong thế giới.

2. Linh hồn có trong mọi phần của cơ thể và người ky tô hữu cũng như thế trong những thành phố trên thế giới.

3. Linh hồn sống trong cơ thể, nhưng không thuộc về nó; người tín hữu sống trong thế giới, nhưng họ không thuộc về thế gian.

4. Linh hồn vô hình chứa trong một cơ thể hữu hình; có thể thấy người tín hữu trong thế giới nhưng mà tôn giáo của họ thì vô hình.

5. Thân xác không chấp nhận linh hổn và đấu tranh để không bị thiệt hại, vì linh hồn ngăn không cho thân xác hưởng những khoái lạc; thế gian này vì để không bị xét là bất công bởi người ky tô hữu, đã ghét họ vì họ chống lại những khoái lạc.

6. Linh hồn yêu mến và nhớ đến thân xác là kẻ ghét nó, người tín hữu cũng yêu thương những kẻ thù ghét họ.

7. Linh hồn chứa đựng trong thân xác, nhưng lại chống đỡ cho thân xác; thế gian này như ngục tù, nhưng người ky tô hữu lại chống đỡ nó.

8. Linh hồn bất tử cư ngụ trong một nơi thuộc về sự chết; người ky tô hữu cũng sống như một kẻ xa lạ giữa những thứ có thể hư hoại, chờ đợi sự bất tử trong nước trời.

9. Thiếu thức ăn thức uống, linh hồn lại càng thêm tinh tuyền; người ky tô hữu dù bị đối xử tệ bạc, mỗi ngày họ lài càng nhiều thêm.

10. Thiên Chúa đã đặt họ vào một nôi mà họ không thể bị bỏ rơi.

VII. Thiên Chúa và Ngôi Lời

1. Thật ra, cũng như đã nói, không phải là một phát hiện trần thế mà họ được nhận, họ cũng không tự cho là gìn giữ với sự cẩn thận một suy nghĩ trần thế, cũng không phải là họ tin vào chương trình của những bí ẩn loài người.

2. Nhưng Đấng thực sự là chúa tể và Đấng sáng tạo tất cả và là Chúa vô hình, chính Ngài đã giáng trần, giữa loài người; sự thật, lời thánh thiện và siêu vượt và đã được giấu kín trong tim họ. Không phải đang được gửi đến như vài người đã nghĩ, một vài tôi tớ hay thiên thần hay các hoàng thân hay một người nào trong số những kẻ danh giá trên trần thế hay trên các tầng trời, mà gửi đến nghệ nhân và Đấng sáng tạo tất cả mọi sự, nhờ đó có sự sáng tạo các tầng trời và ôm trọn biển cả và nhờ Ngìa mà tất cả mọi sự gìn giữ một cách trung thành mầu nhiệm của nó. Từ Ngài mà mặt trời giữ được nhịp điệu hàng ngày của nó, mặt trăng tuân phục Ngài để chiếu sáng đêm đen và những vì sao đi theo vòng quay của trăng, bởi Ngài mà tất cả được sắp đặt, có giới hạn và chuẩn bị; các tầng trời và mọi sự trên trời, trái đất và mọi sự dưới đất, biển cà và những thứ trong đó; lửa, khí, vực thẳm và những thứ trên cao, ở nơi sâu kín, ở giữa lưng chừng; chính Thiên Chúa sắp đặt tất cả.

3. Có lẽ như có người vẫn nghĩ rằng Ngài được gửi đến do sự độc tài, sự sợ hãi và sự lạy lục?

4. Không, tất nhiên là không. Nhưng trong sự dịu dàng và trong sự tốt lành như một vị vua gửi đi con của mình, Ngài gửi đến như Thiên Chúa và như con người ở giữa loài người; Ngài gửi đến như một Đấng Cứu Chuộc, để thuyết phục nhưng không dùng bạo lực. Bạo lực thì không phù hợp với Thiên Chúa.

5. Ngài gửi Đấng đó để kêu gọi mà không phải là bắt bớ; được gửi đến để yêu chứ không phải để phán xét.

6. Ngài sẽ được gửi đến để phán xét, ai có thể chống đỡ được sự hiện diện của Ngài?

7. Anh không thấy (người ky tô hữu) bị ném cho ác thú vì để phải từ bỏ Chúa của họ, không để họ chiến thắng hay sao?

8. Anh không thấy, khi họ càng bị trừng phạt, họ lại càng tăng thêm hay sao?

9. Điều này không có vẻ như là việc làm của loài người, mà là sức mạnh của Thiên Chúa, chứng tỏ sự hiện diện của Ngài.

VIII. Việc nhập thể.

1. Ai trong loài người biết được Chúa là gì, trước khi Ngài đến?

2. Anh muốn chấp nhận những câu chuyện trống rỗng và ngu ngốc của những triết gia thích đáng với đức tin? Một vài người xác định rằng Thiên Chúa là lửa, khi mà , kẻ khác thì nói là nước, một vài kẻ lại nói đó là một trong các yêu tố do chính Thiên Chúa tạo ra.

3. Tất nhiên, nếu vài quả quyết trong số đó có thể được chấp nhận thì có thể khẳng định rằng mỗi thứ trong số các tạo vật bày tỏ ở mức độ bằng nhau Thiên Chúa.

4. Nhưng tất cả những thứ này thật ngớ ngẩn và lừa gạt.

5. Không ai trong loài người thấy Chúa hoặc biết Chúa, nhưng chính Ngài tỏ lộ cho chúng ta.

6. Ngài biểu lộ qua đức tin, nhờ đó mà có thể nhìn thấy Thiên Chúa.

7. Thiên Chúa, Chúa tể và Đấng sáng tạo vũ trụ, đã tạo nên tất cả mọi sự và làm cho nó có thứ tự, không chỉ thể hiện ra như là bạn của loài người, mà còn rất cao thượng.

8. Đấng đó đã, đang và sẽ luôn: xuất sắc, tốt lành, nhân hậy và chân thật, đấng tốt lành duy nhất.

9. Ngài đã nghĩ đến một kế hoạch to lớn và không thể diễn tả bằng lời và đã tỏ lộ nó chỉ nhờ qua người con.

10. Cho đến khi Ngài giữ lại điều đó như là một mầu nhiệm và canh giữ ước muốn sáng suốt của Ngài, hình như la Ngài lúc đó không quan tâm và chẳng nghĩ đến chúng ta.

11. Sau khi qua Người Con yêu dấu, Ngài đã biểu lộ và bày tỏ điều Ngài đã thiết lập ngay từ thủa ban đầu, Ngài cho chúng ta mọi sự, tức là tham dự vào những ân huệ của Ngài, cùng với việc được nhìn thấy và hiểu chúng. Ai trong chúng ta có thể đã trông đợi điều này.

IX. Kế hoạch của Thiên Chúa

1. (Thiên Chúa) có trong Ngài tất cả mọi sự cùng với Người Con, cuối cùng đã cho phép chúng ta, đã bị lôi kéo do những ham muốn và những khao khát, có thể được thu hút bởi những ham muốn và đam mê. Không chiều theo tội lỗi của chúng ta, mà nâng đỡ và không xét đến những thời điểm của những bất công. Ngược lại, Ngài đã chuẩn bị cho thời kỳ của sự công bằng để chúng ta có thể tin vào thời điểm đó, nhờ công việc ta làm, chúng ta không xứng đáng với sự sống, và giờ đây không những nhờ tình yêu Chúa mà chúng ta xứng đáng, và chúng ta tỏ lộ ra, nhờ những gì có trong ta, rằng không thể nào bước vào vương quốc của Chúa nếu không phải chỉ vì sức mạnh của Ngài làm cho chúng ta có khả năng đó.

2. Khi mà sự không công chính của chúng ta đạt tới sự cao trào và được thể hiện rõ rằng xứng đáng bị trừng phạt và chịu chết, sẽ đến thời mà Thiên Chúa đã định để chứng tỏ sự nhân lành và sức mạnh của Ngài. Lớn lao làm sao sự nhân lành và tình thương của Thiên Chúa. Ngài không ghét bỏ, không từ chối và không trả thù, nhưng cao thượng và chịu đựng, và cùng với lòng từ bi, Ngài đã đổ bỏ tất cả tội lỗi chúng ta và gửi đến Người Con làm giá chuộc chúng ta; Đấng Thánh vì kẻ nghịch đạo, người vô tội vì kẻ tội lỗi, người công chính vì kẻ bất lương, người không bị hư mất vì kẻ có thể hư mất, người không chết vì kẻ phải chết.

3. Điều gì khác có thể xoá bỏ tội chúng ta nếu không phải là sự công chính của Ngài?

4. Trong Đấng nào mà chúng ta, bất công và nghịch đạo, sẽ được nên công chính nếu không phải bởi chính con Thiên Chúa?

5. Một sự thay thể ngọt ngào, một công việc khó hiểu thấu, nhưng ơn huệ ngoài mong đợi! Sự bất công của rất nhiều người được chữa lành bởi chỉ một người công chính, và sự công chính của một người làm cho nhiều người trở nên công chính.

6. Thiên Chúa, Đấng trước đây đã làm cho chúng ta tin vào sự bất lực của bản chất chúng ta để có thể có được sự sống, nay chỉ ra một Đấng Cứu Chuộc có khả năng cứu giúp cả cái không thể. Cùng với hai điều này, Ngài muốn rằng chúng ta tin vào lòng nhân lành của Ngài và chúng ta xem Ngài như Đấng chống đỡ, cha, thầy, Đấng bào chữa, thầy thuốc, tinh thần, ánh sáng, danh dự, vinh quang, sức mạnh, sự sống, không cần phải lo nghĩ đến cái ăn đồ mặc.

X. Lòng bác ái

1. Nếu anh ao ước đức tin này thì đầu tiên anh hãy chọn sự hiểu biết của Chúa Cha.

2. Thiên Chúa, thực ra, rất yêu loài người. Vì họ mà Ngài sáng tạo thế giới này, Ngài đặt tất cả mọi sự dưới đất này dưới chân họ, ban cho họ lời nói và lý trí, chỉ có họ mới có quyền nhìn Ngài, Chúa tác tạo loài người theo hình ảnh của mình, vì họ mà Ngài gửi đển Con một, loan báo Vương quốc trên trời và Ngài sẽ trao cho những kẻ đã yêu mến Ngài.

3. Một khi đã biết Thiên Chúa, anh có cảm tưởng nào về niềm vui anh sẽ được đổ đầy tràn không? Vì sao anh sẽ không yêu Đấng đã yêu anh đến như thế chứ?

4. Để yêu Thiên Chúa, anh sẽ trở thành tấm gương phản chiếu lòng nhân hậu của Ngài, và anh đừng ngạc nhiên nếu một người trở thành đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa: điều đó có thể nếu anh ta muốn.

5. Thật là chẳng hạnh phúc khi ức hiếp người đồng loại, khi muốn giành lấy nhiều từ những kẻ bé mọn, khi làm giàu và hành hạ những kẻ dưới quyền. Không kẻ nào trong số đó có thể bắt chước Thiên Chúa, chúng là những thứ xa vời sự lớn lao của Ngài.

6. Nhưng ai biết lấy đi gánh nặng của người khác, và kẻ làm trên biết tìm cách làm lợi cho kẻ dưới; kẻ mà biết trao cho người thiếu thốn những sự anh ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa, giống như một thiên chúa đối với kẻ khác, người đó chính là hình ảnh của Chúa.

7. Bấy giờ, tuy ở lại dưới trần thế này nhưng anh sẽ ngắm nghía được vì sao Thiên Chúa điều khiến các tầng trời, bấy giờ anh sẽ bắt đầu nói về những mầu nhiệm của Thiên Chúa, bấy giờ anh sẽ khâm phục người kẻ đã bị phạt vì không muốn chối Chúa. Anh sẽ tố cáo những lường gạt và những lỗi lầm của thế giới khi anh biết được thực sự cuộc sống trên trời, khi anh khinh bỉ cái được gọi là chết và sẽ sợ cái chết thật, được dành cho những kẻ có tội trong lửa đời đời, thứ lửa dày vò đến cực điểm những kẻ được trao cho nó.

8. Nếu anh biết về lửa đó, anh sẽ khâm phục và sẽ gọi là có phúc những kẻ đã chịu đựng vì công lý thứ lửa trần thế này.

XI. Thầy của họ

1. Tôi không nói đến những điều kỳ dị, cũng không tìm những sự giả dối, nhưng tôi đã trở nên tông đồ của các tông đồ, trở nên thầy dạy người khác và truyền lại cách xứng đáng điều thông truyền cho những kẻ đã trở nên môn để của sự thật.

2. Thực ra, ai tập luyện và làm bạn cách chân thành với Ngôi lời, không phải là tìm cách học hỏi cách sáng suốt những thứ mà Ngôi Lời đã chỉ ra cho các môn đệ hay sao? Không có vẻ như là đối với họ, Ngôi Lời, bày tỏ và nói một cách tự do, khi mà từ những kẻ không có đức tin không thể hiểu thấu, nhưng hướng dẫn các môn đệ, được xem là trung tín, hiểu biết về những mầu nhiệm của Chúa Cha hay sao?

3. Thiên Chúa gửi đến Ngôi Lời như là ân sủng của Ngài, vì sẽ tỏ lộ cho thế gian này. Bị ruồng bỏ bởi loài người, đã công bố cho các tông đồ, và làm cho dân ngoại tin theo.

4. Thiên Chúa ngay từ thửa đời đời đã xuất hiện như điều mới lạ và đã có từ ngàn xưa, và luôn luôn tươi mới trong lòng các tín hữu.

5. Thiên Chúa hằng hữu, từ đời đời người con đã được xét đến. Nhờ Ngài mà Hội Thánh trở nên phong phú, và ân sủng trao ban nơi các tín hữu được nhân lên bội phần. Giáo Hội được gợi hứng từ sự khôn ngoan, đã tỏ lộ các mầu nhiệm, đã được báo trước thời gian, vui mừng vì con cái mình, ban cho những kẻ đang tìm kiếm mà không phá vỡ các lời tuyên thệ đức tin, cũng không vượt quá giới hạn nơi các giáo phụ.

6. Sau đó, chúng ta kỷ niệm sự kính sợ lề luật, chúng ta thừa nhận ân súng nơi các ngôn sứ, chúng ta giữ lại đức tin nơi các Tin Mừng, giữ lại truyền thống của các tông đồ và ơn sủng trong Giáo Hội hoan hỷ.

7. Ân sủng đó không gây đau khổ, anh sẽ biết điều mà Ngôi Lời nói nhờ những kẻ người muốn, và thời điểm người thích.

8. Vì lòng yêu mến những điều đã tỏ lộ cho chúng ta, tất cả chúng ta hãy tham dự vào; nhờ ý muốn của Ngôi Lời đã định hướng cho điều đó, chúng tôi bị thúc đẩy phải làm chứng với lòng nhiệt thành.

XII. Khoa học đích thực

1. Hãy chú ý và lắng nghe cẩn thận, hãy biết nhưng điều nào mà Thiên Chúa chuẩn bị cho những kẻ yêu Ngài cách ngay thẳng. Họ sẽ trở nên thiên đường của nhưng sự vui sướng và két sinh trong họ, ngoài nhiều loại hoa trái, một cây trĩu quả và xum xuê.

2. Nơi đó, thực ra, đã được trồng một cây của khoa học và một cây của sự sống; không phải cây của khoa học, mà chính sự bất tuân làm cho chết.

3. Không tối nghĩa chút nào điều đã được viết: rằng Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã trồng giữa thiên đường cây của sự hiểu biết và cây của sự sống; chỉ ra sự sống bằng sự hiểu biết. Những kẻ mà ngay từ khởi đầu không sử dụng điều đó cách rõ ràng, vì sự lừa dối của con rằng mà họ bị lột trần.

4. Không phải là sự sống không có khoa học, cũng không phải khoa học thì không có sự sống đích thực trong đó, vì thế nên hai cây đó được trồng gần nhau.

5. Tông đồ, hiểu được sức mạnh này và chê trách khoa học vì đã sử dụng cuộc sống thiếu đi các quy tắc của chân lý, và nói rằng: “Khoa học thổi phồng, lòng bác ái, ngược lại, có tính xây dựng”.

6. Kẻ nào tin rằng đã biết điều gì đó, nhưng thiếu đi sự hiểu biết đích thức chứng minh bằng đời sống, thì không biết: hắn đã bị lừa gạt bởi con rắn, kẻ không yêu mến sự sống. Người đó, ngược lại, hiểu biết trong sự kính sợ và tìm kiếm cuộc sống, được gieo mầm trong hy vọng mang lại hoa trái.

7. Khoa học nằm trong tim anh và sự sống là lời chân thật được đón nhận.

8. Hãy mang cây đó và hãy đón nhận hoa trái, anh sẽ được luôn dồi dào những thứ mà kẻ khác mong ước trước mặt Thiên Chúa, và con rắn không động đến được và sự lừa dối không thể mê hoặc; Eva không phải bị hư mất nhưng đã được thừa nhận là trong trắng.

9. Chỉ ra sự thật, các tông đồ có thể hiểu được, Phục Sinh của Đức Kytô đang đến gần, thời gian đang hoàn tất và tất cả chuẩn bị đang được xếp đặt, và Ngôi Lời, Đấng đào tạo các Thánh sẽ hân hoan. Qua Người mà Chúa Cha được chúc tụng, và vinh quang đến muôn đời cho Người. Amen.